Những điểm mới nổi bật của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14
Thứ sáu - 26/06/2020 06:58
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13/6/2019 (gọi tắt là Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14) gồm 17 chương 152 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2020, trừ quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử có hiệu lực từ ngày 01/07/2022 (khoản 2 Điều 151). Theo đó, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2012/QH13, Luật số 71/2014/QH13 và Luật số 106/2016/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành.
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính. Trong đó, có cải cách thủ tục quản lý thuế hướng tới hoạt động quản lý công khai, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, phòng chống trốn thuế, thất thu và nợ đọng thuế được quy định thống nhất trong tất cả các khâu của quản lý thuế: từ khâu đăng ký thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế đến quản lý nợ, thanh tra, kiểm tra thuế.
Sau đây là một số điểm đáng chú ý của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh của Luật này là quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước.
Trước đây, Luật Quản lý thuế quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về đối tượng áp dụng, Luật này quy định bãi bỏ quy định đối tượng người nộp thuế là “tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế”.
Thứ ba, về nội dung quản lý thuế, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 bổ sung thêm 03 (ba) nội dung quản lý thuế như sau: Quản lý hóa đơn, chứng từ; Hợp tác quốc tế về thuế và Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế.
Thứ tư, về nguyên tắc quản lý thuế nhấn mạnh: “Thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý thuế; áp dụng các nguyên tắc quản lý thuế theo thông lệ quốc tế, trong đó có nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ thuế, nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản lý thuế và các nguyên tắc khác phù hợp với điều kiện của Việt Nam.” Nguyên tắc này nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong quản lý thuế.
Thứ năm, Luật Quản lý thuế mới bổ sung một số nội dung về quyền của người nộp thuế như:
- Được nhận văn bản liên quan đến nghĩa vụ thuế của các cơ quan chức năng khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
- Được biết thời hạn giải quyết hoàn thuế, số tiền thuế không được hoàn và căn cứ pháp lý đối với số tiền thuế không được hoàn.
- Được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và pháp luật về giao dịch điện tử.
- Được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan quản lý thuế và cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, không tính tiền chậm nộp đối với trường hợp do người nộp thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn và quyết định xử lý của cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến nội dung xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
Thứ sáu, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 làm rõ, quản lý chặt hơn đối với giao dịch liên kết và cũng là lần đầu tiên quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.
Khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 về kê khai thuế quy định: Đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Hiện nay, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử phát triển ngày càng rộng rãi thì việc xây dựng, ban hành các quy định về quản lý thuế trong lĩnh vực này là cần thiết. Việc quy định trong Luật là một trong những nội dung mang tính chất định hướng và đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
Tiếp đó khoản 5 Điều 42 Luật Quản lý thuế quy định nguyên tắc kê khai, xác định giá tính thuế đối với giao dịch liên kết như sau:
- Kê khai, xác định giá giao dịch liên kết theo nguyên tắc phân tích, so sánh với các giao dịch độc lập và nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ thuế để xác định nghĩa vụ thuế phải nộp như trong điều kiện giao dịch giữa các bên độc lập;
- Giá giao dịch liên kết được điều chỉnh theo giao dịch độc lập để kê khai, xác định số tiền thuế phải nộp theo nguyên tắc không làm giảm thu nhập chịu thuế;
Lưu ý rằng người nộp thuế có quy mô nhỏ, rủi ro về thuế thấp được miễn thực hiện quy định kê khai, xác định giá tính thuế theo nội dung trên và được áp dụng cơ chế đơn giản hóa trong kê khai, xác định giá giao dịch liên kết.
Thứ bảy, thời hạn nộp hồ sơ khai thuế đối với hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 4 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch.
Như vậy, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 cho phép cá nhân trực tiếp quyết toán thuế được nộp hồ sơ quyết toán thuế trong thời hạn là 120 ngày kể từ ngày kết thúc năm dương lịch, kéo dài thêm 1 tháng so với thời quy định hiện hành.
Thứ tám, bổ sung thêm một số trường hợp trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt, cụ thể: Hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; Cá nhân đã chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ.
Đối với các khoản thuế được miễn, giảm, không thu, xóa nợ thuế phát sinh trước ngày 01/07/2020 thì tiếp tục xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2012/QH13, Luật số 71/2014/QH13 và Luật số 106/2016/QH13.
Thứ chín, về quy định sử dụng hóa đơn điện tử. Luật Quản lý thuế năm 2019 bắt buộc tổ chức, cá nhân sử dụng hóa đơn điện tử từ ngày 01/07/2022, tuy nhiên Luật cũng khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử trước ngày 01/07/2022. Theo đó, khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập hóa đơn điện tử để giao cho người mua theo định dạng chuẩn dữ liệu mà cơ quan thuế quy định và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật về thuế, pháp luật về kế toán, không phân biệt giá trị từng lần bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.
Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán và các trường hợp xác định được doanh thu khi bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.
Đối với cấp hóa đơn theo từng lần phát sinh (hóa đơn lẻ): hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không đáp ứng điều kiện phải sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế nhưng cần có hóa đơn để giao cho khách hàng hoặc trường hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác được cơ quan thuế chấp nhận cấp hóa đơn điện tử để giao cho khách hàng thì được cơ quan thuế cấp hóa đơn điện tử có mã theo từng lần phát sinh và phải khai, nộp thuế trước khi cơ quan thuế cấp hóa đơn điện tử theo từng lần phát sinh.
Thứ mười, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 104 Luật Quản lý thuế 2019 bổ sung chức năng cung cấp dịch vụ kế toán cho doanh nghiệp siêu nhỏ cho đại lý thuế. Đây là quy định cho phép các đại lý thuế thêm chức năng cung cấp dịch vụ kế toán ngoài việc cung cấp dịch vụ đại lý thuế đang thực hiện. Chức năng này phù hợp với thực tế phát sinh, giúp những doanh nghiệp siêu nhỏ tiết kiệm chi phí khi thay vì phải thuê hai đơn vị thực hiện 02 dịch vụ (đại lý thuế và kế toán) nay chỉ cần một đơn vị thực hiện hai nhiệm vụ trên.
Trên đây là những điểm mới nổi bật của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, Chi cục Thuế khu vực Quảng Trạch – Ba Đồn cung cấp thông tin đến người nộp thuế trên địa bàn huyện Quảng Trạch được biết và thực hiện./.