Giữa thế kỷ XV, Trung lang Thượng tướng quân Trương Hy Trọng (còn gọi là Trương Đức Trọng, quê ở Hải Dương) vâng mệnh vua Lê vào trấn giữ vùng đất Thuận Hoá. Trương Hy Trọng tên thật là Trương Công Chấn - Hậu duệ của Trương Công Án (làm quan Tham lang Tướng ở phủ Tể tướng Trần Nguyên Hãn). Ông đã chiêu dân, lập ấp khai phá đầm lầy, dựng lên làng bản. Đại quân của ông đã vượt qua sông Nan, sông Son (Hai nhánh của sông Gianh - Linh Giang) tiến đánh quân Lồi. Ngày ấy trên sông Nan có một khúc sông cạn, hẹp, voi và ngựa của ngài lội qua bờ Nam đi đánh giặc nên người ta gọi là Bến Lội. Bến Lội cách cầu Minh Lệ ngày nay gần 300 mét về phía tây. Dẹp xong giặc Lồi, (tức giặc Lôi Nam - Chiêm Thành) ông đã cùng ba quân dưới quyền đứng đầu ba dòng họ: Nguyễn, Hoàng, Trần lấy vùng đất Hạ Yên Trạch (Bắc Minh Lệ) làm nơi kết nghĩa anh em.
Ca ngợi công lao của Trương Hy Trọng, vị tướng mang gươm đi mở cõi, trên lăng mộ ngài, (gọi là miếu Tổng Lang) có hai câu đối của các vị vua đời sau: “Bình Lồi thiết xã” (đánh giặc Lồi, chiêu tập làng xã) và “Bố võ tuyên văn” (Con người văn võ song toàn). Trong bái đường của ngài có hai câu: “Xã hiệu khai trương thiên cổ ngưỡng - Thần công biểu hiện lịch triều phong” (Tên làng xã đã được mở ra, ngàn năm trông ngóng về đó). Công lao của Thành hoàng được các triều vua nối tiếp nhau phong sắc. Năm 1792, vua Lê phong sắc cho ông “Cai trị phương tước hầu”. Năm Quang Trung thứ hai, ông được phong sắc “Trung Lang Thượng tướng quân”. Ngày nay ông Trương Minh Đức, giáo viên về hưu ở thôn Bắc Minh Lệ là hậu duệ thứ 18 của ngài vẫn còn giữ sắc phong thành hoàng do vua Quang Trung truy phong. Dân hai xã Quảng Minh, Quảng Hoà vẫn còn lưu truyền câu ca: “Mồng một xủi mả Tổng Lang. Mồng hai xủi mả cả làng nhà ta”.
Đình làng Minh Lệ được xây dựng năm 1464 dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ, là nơi thờ tự bốn vị Đức Thần Tổ. Thuở ấy xã Thị Lệ gồm có năm thôn nên người ta thường nói “Nhất xã ngũ thôn”: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường - Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh - Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc). Thuở sơ khai, đình Minh Lệ là ngôi đình chung của cả năm thôn, sau này thôn nào có đình nấy. Riêng hai thôn Diên Trường và Vĩnh Phước theo giáo nên xây dựng nhà thờ. Hiện nay ở đình làng Minh Lệ có các hoành phi câu đối của vua các triều đại sau: Tự sự Khổng Minh Gia hội hợp lễ. Hay : Xa thư cộng đạo văn Minh xiển Hương hoả thiên thu điển lễ tồn. Căn cứ vào điều này, cố nhà giáo Hoàng Hữu Samcho rằng tên làng Minh Lệ phải là Minh Lễ (do ghép chữ Minh và Lễ mà thành). Ông đã đưa vấn đề này lên báo chí và Tổng cục Đường sắt Việt Nam nên tên nhà ga Minh Lệ đã được đổi thành nhà ga Minh Lễ. Sau đó, Đại tá - nhà văn Hoàng Thúc Cẩn viết tên làng Minh Lệ gắn liền với một huyền thoại. Ông Minh, bà Lệ di dân từ Hải Dương vào lập làng. Ông Nguyễn Khắc Minh có nhà thờ Truy Viễn Đường ở làng Vĩnh Phước (Quảng Lộc) vừa mới được Nhà nước cấp kinh phí trùng tu lại. Minh là sáng. Làng minh bạch, trong sáng không có chỗ nào mập mờ. Ngay văn bản chữ viết đầu tiên của làng về việc làm đình do cụ Phó lí Hoàng Liễn viết năm 1927 cũng đã kể lại điều đó. Ngày xưa, ông cha ta đã viết rõ: “việc làng xã cần phải minh bạch, trong sáng, không tham ô, xà xẻo của dân làng”. Lễ là lễ nghĩa. Làng Minh Lễ là làng văn minh lễ nghĩa. Lệ là đẹp. Vẻ đẹp diễm lệ, tráng lệ. Làng Minh Lệ đẹp lộng lẫy, trong sáng và quý phái. Minh Lệ hay Minh Lễ cả hai tên đều đẹp, đều sang như cuộc sống ngàn đời của cha ông mình đã sống. Dân làng Minh Lệ hay Minh Lễ cũng đều là con dân đất Việt. Sống sao cho trọn đạo hiếu, sống đúng với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến. Đó mới là điều đáng quý nhất. Trong cuộc hội thảo “Lịch sử Đảng bộ xã Quảng Minh năm 1930 – 2015” mọi người đều nhất trí giữ tên đình Minh Lệ. Thuở chúng tôi lớn lên đã thấy đình Minh Lệ đứng uy nghi trầm mặc giữa cánh đồng làng. Có hai con đường cho dân hai xóm Bắc, Nam vào đình tế lễ. Đình gồm: cổng, sân, thành bao, đình trung và đình hậu. Đình trung bốn mái, hai mái trước và hai mái hồi. Trên đình, giữa mái có lưỡng long chầu nguyệt, hai góc mái là hình hai con rồng lượn đã được cách điệu thành hoa lá, đầu rồng ẩn trong lá. Bốn góc mái là hình rồng lượn, vuốt cong nâng mái đình uyển chuyển, giữa hai đường mái trước là hình khối của hai con lân. Đình được xây dựng lại năm 1927 (năm Bảo Đại nhị niên). Hồi còn sống, cụ Hoàng Thiện Dưỡng (dân làng gọi là cụ Bát Dưỡng) - một trong những người tham gia làm đình kể lại. “Trước đây đình làm bằng cột lim, lợp vọt, hàng năm các họ phải thay phiên nhau sửa sang lại đình. Đình mới làm lại xây bằng vôi trộn mật mía và sợi dây tơ hồng giã nhuyễn nên các hoa văn vẫn sắc nét mà không bị mài mòn bởi nắng mưa. Ngày làm đình làng đông vui như hội. Ai cũng muốn có từ đường chung, làm nơi thờ cúng và sinh hoạt của cộng đồng làng xã thật khang trang. Việc làm đình được sự nhất trí cao của toàn dân, ai cũng muốn góp công, góp quỹ. Những người dân quê mộc mạc, chân chất, tuy nghèo đói thiếu thốn nhưng đối với công việc làng nước, quê hương thì muôn người như một”. Trước Cách mạng Tháng Tám, đình làng Minh Lệ không chỉ là nơi thờ tự mà còn là nơi liên lạc, hội họp của chi bộ Đảng (ở làng Minh Lệ có cụ Nguyễn Xừ, Nguyễn Đình Ngô, Nguyễn Sính được kết nạp Đảng trước Cách mạng tháng Tám). Các đồng chí: Nguyễn Tế (tức Nguyễn Văn Huyên) là một trong 13 đại biểu dự Hội nghị thành lập Ban Thống nhất Đảng toàn tỉnh Quảng Bình tại chùa An Xá (Lệ Thuỷ - Quảng Bình); đồng chí Nguyễn Văn Đồng (tức Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên) - vị tướng gắn liền với con đường Hồ Chí Minh huyền thoại, sau khi dự hội nghị Việt Minh toàn tỉnh cũng đã về chỉ đạo, tổ chức, phát động quần chúng, nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa tại đình làng. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, toàn dân nô nức đi cướp chính quyền ở xã và huyện đường rồi kéo về mít tinh tại đình làng. Trong chín năm kháng chiến, đình là nơi huấn luyện quân sự cho dân quân tự vệ xã Quảng Minh. Đã nhiều lần, các chiến sĩ cách mạng trốn địch trên mái đình hậu. Dân làng Minh Lệ vẫn còn nhớ người đội viên thiếu niên du kích Hoàng Đức (Cồn Vượn- Quảng Minh) khi bị địch vây bắt giữa Rôộc Đình, anh đã chạy vào trong đình làng. Anh nhảy lên nằm ở trên mái am, trong khi đó bọn địch chĩa súng bắn từng bụi tre, lùm dứa. Có lẽ anh linh của các ngài đã che chở, phù hộ cho anh thoát khỏi họng súng của quân thù. Từ năm 1951 đến khi hoà bình lập lại, đình làm lớp học cho con em Quảng Minh khi chưa kịp xây dựng trường. Giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, đình là kho chứa vũ khí để cung cấp cho chiến trường miền Nam và chín xã vùng Nam Quảng Trạch. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làng Minh Lệ là trạm trung chuyển Bắc - Nam. Làng trở thành “toạ độ lửa”. Giặc Mỹ tập trung bắn phá làng Minh Lệ, chúng thả bom na pan, phốt pho đốt trụi xóm Nam, ném bom, bắn hoả tiễn xuống Tây - Bắc. Bom đánh sập thành bao nhưng ngôi đình vẫn an toàn, kho đạn vẫn không hề hấn gì. Ấy thế mà khi đất nước thống nhất, một số người đã cho phá nhà thờ họ, đình làng để làm việc khác. Một số người thiếu hiểu biết đã cho dỡ đình làm lò vôi, lò ngói... Năm 1992, đình làng Minh Lệ đã được Nhà nước xếp hạng, công nhận là Di tích lịch sử văn hoá. Nhà nước đã cấp kinh phí 900 triệu đồng để trùng tu lại ngôi đình. Hàng năm, con cháu đi xa đều ghé lại để thắp hương. Đình làng Minh lệ được coi như là “văn miếu” của làng. Những sĩ tử đến trường thi dù vội đến mấy cũng đến thắp hương khấn vái Tứ Đức Thần Tổ. Có nhiều người học hành đỗ đạt lại kéo đến đình làng dâng hương hoa. Họ chọn đình làng làm nơi làm lễ “vinh quy bái tổ”. Có vị khi đỗ Tiến sĩ về làng làm cỗ dâng cúng Tứ Đức Thần Tổ và chia vui với bạn bè. Thật là một tục lệ đẹp mang đầy ý nghĩa nhân văn.
Ngày nay, đình làng Minh Lệ là nơi hội tụ con cháu các họ trong ngày tảo mộ. Con cháu dù ở Hà Nội, Hải Phòng hay thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cà Mau...cũng thu xếp công việc về với quê hương. Mái đình trở thành một biểu tượng thân thương của một làng quê miền Trung đầy gian nan vất vả, nghèo đói nhọc nhằn nhưng rất đỗi kiên trung.
Tài liệu tham khảo: Gia phả dòng họ Trương Hy Trọng do Trưởng họ Trương Minh Đức và Phó giáo sư- Tiến sĩ Trương Minh Dục cung cấp