Di tích lịch sử -  văn hóa: Mộ Mai Lượng

Thứ tư - 04/10/2023 08:42
Lãnh binh Mai Lượng sinh năm Mậu Tuất (1838) vào đời thứ 12 của dòng họ Mai tại làng Thọ Linh, tổng Thuận Thị, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay thuộc thôn Minh Sơn làng Thọ Linh, xã Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình).
Lãnh binh Mai Lượng (1838 - 1890)
Lãnh binh Mai Lượng (1838 - 1890)
     Xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống hiếu học. Từ nhỏ, sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, ông được người anh ruột yêu thương nuôi dạy và cho ăn học. Từ thuở thiếu thời, ông đã tỏ rõ tư chất thông minh, có ý chí và nghị lực, được mọi người già trẻ yêu mến.
Cùng với việc học tập văn chương, ông thường xuyên luyện tập võ nghệ cùng trai tráng trong làng. Trong khoa thi Hội võ, dưới triều vua Tự Đức ngày 2 tháng 5 năm Ất Sửu (26-05-1865) ông thi đỗ Cử nhân võ và được Triều đình sung vào quân ngũ, phong chức Hiệp quản.
Với chức Hiệp quản, ông được điều động ra chỉ huy một đơn vị trấn giữ ở Đèo Ngang. Tại đây, ngoài việc làm tròn nhiệm vụ về quân sự, ông đã làm nhiều việc giúp dân trong vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho dân dễ làm ăn; điều động binh lính dưới quyền giúp dân khai hoang, đào kênh dẫn nước vào ruộng… Những việc làm của ông được nhân dân cảm phục ghi ơn. Vì vậy khi nghe tin ông mất, nhân dân vùng Đèo Ngang đã lập miếu thờ, gọi là miếu ông Lãnh Mai.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Đèo Ngang, ông được Triều đình điều động vào Đồng Hới chỉ huy quân đội Triều đình đóng tại Quảng Bình.
Thời gian Mai Lượng phục vụ trong quân ngũ, nội bộ Triều đình Huế đã bị phân hóa sâu sắc trước sự tấn công xâm lược của thực dân Pháp. Lúc này Triều đình Huế chia làm hai phái: phái Chủ chiến và phái Chủ hòa. Phái Chủ chiến tập hợp những người yêu nước quyết tâm chiến đấu chống quân xâm lược Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc. Phái Chủ hoà thực chất là những kẻ hèn nhát muốn đầu hàng giặc. Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng tình cảm, và hành động không những đối với hàng ngũ quan lại trong bộ máy Triều đình Huế, mà ngay cả với mọi tầng lớp nhân dân.
Ngay từ những ngày đầu làm quan của Triều đình Huế, Hiệp quản Mai Lượng đã tỏ rõ ý thức độc lập dân tộc, kiên quyết chống giặc xâm lược. Ông thường phê phán những hành động yếu hèn và bất lực của Triều đình.
Khi phái Chủ hoà hèn nhát trong Triều đình Huế ký hiệp ước đầu hàng giặc (hiệp ước Patenotre ngày 6 tháng 6 năm 1884), với tinh thần yêu nước và ý thức độc lập dân tộc, ông rất căm phẫn sự xâm lược của thực dân Pháp và hành động đầu hàng bán nước của Triều đình. Vốn tính cương trực, ông chán ngấy trước thời cuộc nên đã từ quan về quê ở ẩn, kiên quyết bất hợp tác với thực dân Pháp và những kẻ cam tâm bán nước cho giặc.
Khi vua Hàm Nghi xuống Chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp, sẵn nung nấu lòng căm thù giặc, ông là một trong số những văn thân, sĩ phu yêu nước ở Quảng Bình đầu tiên đến yết kiến Sơn Triều (tức Triều đình vua Hàm Nghi). Vốn là một võ quan cũ của Triều đình Huế, ông được vua Hàm Nghi phong chức Lãnh binh cùng với những người khác phò tá nhà vua, chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, nhân dân trong vùng thường gọi tên ông là ông Lãnh Mai.
Lĩnh sứ mệnh của Triều đình giao phó, ông trở về quê nhà chiêu mộ dân binh, nghĩa dũng, tập hợp lực lượng kháng chiến tại địa bàn vùng hữu ngạn sông Gianh. Căn cứ của nghĩa quân Mai Lượng rộng lớn ở núi rừng thuộc vùng Cao Mại được bố phòng chặt chẽ với kế hoạch và dự định kháng chiến lâu dài. Tại căn cứ ông cho lập khu chỉ huy, khu trại binh, khu luyện quân, dạy võ, xưởng rèn đúc vũ khí, gươm đao; phát rẫy làm nương tăng gia sản xuất để tự túc một phần lương thực, thuốc men. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân trải rộng trên 3 huyện Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình.
Nghĩa quân Mai Lượng có hàng nghìn người được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, có liên lạc với Sơn triều và phối hợp hoạt động cùng với nghĩa quân của các lãnh tụ khác như Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực, ông Tham La Hà tạo thành một phong trào kháng chiến rộng lớn trên đất Quảng Bình, đánh dấu bước phát triển cao của phong trào Cần Vương yêu nước.
Nghĩa quân Mai Lượng thường sử dụng lối đánh du kích, phục kích, khi xung trận rất dũng mãnh và mưu trí. Với sự lãnh đạo thông minh, quân sĩ một lòng, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Mai Lượng rất nhiều phen làm cho giặc Pháp khiếp sợ.
Từ căn cứ Cao Mại, nghĩa quân thường tổ chức các đội quân nhỏ đi hoạt động đánh địch ở vùng Troóc, Khương Hà…và còn vươn đến hoạt động ở các làng vùng đồng bằng hạ lưu sông Gianh. Hoạt động mạnh mẽ nhất của nghĩa quân Mai Lượng là từ những năm 1886 đến đầu năm 1889.
Ở vùng đồng bằng, nghĩa quân của ông đã từng đánh những trận nổi tiếng ở các làng Thọ Linh, TrungThôn, Biểu Lệ, Lâm Xuân, Hòa Ninh, Diên Trường…
Tháng 6 năm 1886 tên thiếu tá Pháp Gre-Gain đem quân càn quét khu vực hữu ngạn sông Gianh, khi vào khu vực Rào Nan – cửa ngõ của căn cứ nghĩa quân đã bị quân của Mai Lượng phục kích gây cho chúng nhiều tổn thất.
Trong các trận càn quét của địch vào thôn Hạ Trang (Lệ Sơn) vào ngày 17 tháng 4 năm 1887 và vào vùng Troóc ngày 25 tháng 4 năm 1887, ông đã chỉ huy nghĩa quân dựa vào địa thế vùng núi hiểm trở chặn đánh địch quyết liệt bằng súng thần công, Tắc-giang, giỏ đá…gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Những chiến công đó đã có những tiếng vang mạnh mẽ thúc đẩy cao trào của phong trào Cần Vương cứu nước trong những năm 1886 – 1887 ở Quảng Bình.
Nhiều ca dao, hò vè ở địa phương đã phản ánh về cuộc chiến đấu của ông như:
Sơn Triều binh tướng những ai
Thọ Linh có một Lãnh Mai kéo về
Thanh Thủy thì có quan Đề
Hạ thôn quan Hữu kéo về quyên lương…
Hoặc:
Lãnh Mai cùng với ông Tham La Hà
Hai ông hội nghị thật đà giao ngôn
Kéo lên khe Troóc, khe Môn
Thứ hai khe Sến đóng đồn quyên lương
Cắt dân hướng đạo đem đường
Vắt qua Chương Chà Coộng, về Chương Chà Nòi
Hoặc:
Ngã Hai, khe Troóc, khe Môn
Là nơi quan Lãnh lập đồn quyên lương
Vào cuối năm 1887, cuộc chiến đấu của nghĩa quân vẫn trong thời kỳ quyết liệt. Địch tổ chức các mũi đột kích với hoả lực mạnh đánh vào vùng căn cứ nghĩa quân Mai Lượng nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại.
Tuy bảo vệ được căn cứ nhưng lực lượng của nghĩa quân cũng bị nhiều tổn thất. Bước sang năm 1888, Mai Lượng củng cố lực lượng, tăng cường xây dựng phong trào ở các vùng trong tầm kiểm soát của nghĩa quân. Nhân dân tuy bị địch khủng bố gắt gao nhưng vẫn một lòng ủng hộ phong trào. Nhiều thanh niên trai tráng gia nhập nghĩa quân, nhiều gia đình góp công, góp của ủng hộ nghĩa quân.
Để kháng chiến lâu dài, nghĩa quân lại tăng cường sản xuất lương thực, rèn đúc vũ khí, xây dựng các trận địa mai phục… Nhờ vậy, nghĩa quân không những đánh bại các trận càn của địch vào đầu năm 1888 mà còn vươn ra hoạt động trên địa bàn ngày càng rộng.
Đặc biệt, có những nơi có đồng bào theo đạo Công giáo, ông rất chú ý tuyên truyền trong nhân dân chủ trương đoàn kết lương, giáo chống lại âm mưu thâm độc kích động gây chia rẽ đồng bào lương và giáo của giặc Pháp để chống lại nghĩa quân.
Nghĩa quân Mai Lượng được giáo dục ý thức bảo vệ tính mạng, tài sản của đồng bào, đối xử nhân đạo với tù binh… Vì vậy, nghĩa quân Mai Lượng luôn nhận được sự ủng hộ giúp đỡ, thương yêu, bao bọc của nhân dân.
Trước sự tăng cường hoạt động của nghĩa quân, thực dân Pháp điều thiếu tá Glađét từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình phối hợp với đại uý Callet tổ chức tăng cường lực lượng, xây dựng thêm nhiều đồn bốt để siết chặt vòng vây, chia cách vùng căn cứ kháng chiến của ta, nhằm đẩy lùi hoạt động của nghĩa quân.
Từ nửa năm 1888 về sau, tình hình chung của phong trào gặp nhiều khó khăn, nghĩa quân Nguyễn Phạm Tuân tan rã sau khi lãnh tụ qua đời; tại bản doanh của Sơn Triều ở Tà Bảo, tên Trương Quang Ngọc – người trực tiếp bảo vệ nhà vua đã phản bội dẫn đến việc vua Hàm Nghi bị bắt (1-11-1888). Tôn Thất Thiệp bị địch giết, Tôn Thất Đạm thoái chí giải tán nghĩa quân và tự vẫn. Ở hữu ngạn sông Gianh, Lê Trực thế cô cũng giải tán nghĩa quân và ra hàng…
Trước tình hình đó, Mai Lượng đã phân tích rõ tình hình, động viên binh lính không được bi quan, chán nản, thoái chí để kiên trì tiếp tục chiến đấu.
Khi rảnh tay đối phó với nghĩa quân của các vùng khác, địch dồn sức bao vây cô lập, gây nhiều khó khăn cho nghĩa quân Mai Lượng nhất là việc tiếp tế lương thực thuốc men. Để đối phó với tình hình khó khăn đó, ông tổ chức nhiều toán nhỏ nghĩa quân, tận dụng địa hình hiểm trở đánh du kích tiêu hao sinh lực địch. Mặt khác, cho người ra Hà Tĩnh tìm cách liên lạc với nghĩa quân Phan Đình Phùng để phối hợp hoạt động.
Sau khi vua Hàm Nghi bị giặc bắt, mặc dù “lãnh tụ tinh thần” không còn nữa, nghĩa quân bị địch bao vây tấn công, thiếu lương thực, thuốc men, vũ khí… nhưng nghĩa quân Mai Lượng không vì thế mà thoái chí. Với sự nghiệp kháng chiến vì độc lập dân tộc, chống ngoại xâm, nghĩa quân Mai Lượng vẫn tiếp tục chiến đấu, bảo vệ được căn cứ, gây cho địch nhiều tổn thất.
Giữa lúc nghĩa quân đang dồn sức chống lại sự tấn công của địch thì ngày 12 tháng 5 năm 1890 ( vào ngày 24 tháng 3 năm Canh Dần) bệnh sốt rét rừng ác tính đã cướp đi vị lãnh tụ kính yêu của nghĩa quân vùng hữu ngạn sông Gianh tại căn cứ Cao Mại lúc ông 53 tuổi.
Khi được tin Lãnh binh Mai Lượng qua đời, giặc Pháp trả thù bằng cách cướp thi thể ông, nhưng với lòng dũng cảm và yêu mến lãnh tụ của nghĩa quân, sự đùm bọc của nhân dân đã làm thất bại âm mưu hèn hạ đó. Không trả thù được ông, giặc Pháp tìm bắt vợ ông, bà Trần Thị Tám – người vợ cùng tâm huyết với sự nghiệp của chồng đem giam ở nhà tù Troóc và bắt con trai là Mai Xuân Đoá đem giam ở đồn Minh Cầm. Mặc dù giặc ra sức mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn dã man, nhưng vợ và con của ông vẫn bất hợp tác với giặc. Bất lực trước tinh thần bất khuất và kiên quyết của hai mẹ con bà, sau một thời gian địch phải thả vợ và con ông về quê giam lỏng.
Sau này phần mộ của ông ở vùng căn cứ Cao Mại đã được gia đình và bà con bí mật đưa về an táng tại quê nhà.
Lãnh binh Mai Lượng qua đời cùng với việc nghĩa quân tan rã, nhưng ý chí kiên cường và lòng yêu nước, thương nòi của ông, cuộc đời sự nghiệp của ông đã để lại trong lịch sử dân tộc một tình cảm, một nét son sâu đậm.
Do có công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc, ngày 24 tháng 1 năm 1998, phần mộ của ông được cấp bằng quốc gia công nhận là “Di tích Lịch sử – Văn hóa Mộ Mai Lượng” theo Quyết định số 95/QĐ-BT ngày 24/01/1998 của Bộ Văn hóa-Thông tin.
2
Bằng công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa Mộ Mai Lượng
Cũng tại nơi này, ngày 18 tháng 05 năm 1998, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân xã Quảng Sơn và gia tộc họ Mai vinh và dự long trọng tổ chức lễ đón nhận bằng công nhận “Di tích Lịch sử – Văn hóa Mộ Mai Lượng” có đại diện của lãnh đạo tỉnh, huyện, các địa phương và đông đảo nhân dân tham dự.
3
UBND Tỉnh Quảng Bình, huyện Quảng Trạch (cũ) , xã Quảng Sơn và nhân dân trong vùng làm lễ rước và đón nhận Bằng
Qua lược sử khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Lãnh binh Mai Lượng chúng ta thấy ở ông một đặc tính kiệt xuất của một người Việt Nam yêu nước. Có thể nói cuộc đời, sự nghiệp của Lãnh binh Mai Lượng thể hiện đậm sắc một con người toàn năng với lòng yêu nước nồng nàn, với tài năng và chí khí quật cường, hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp chống giặc giữ nước. Cuộc đời và sự nghiệp của ông xứng đáng được lịch sử và nhân dân mãi mãi ghi nhận, ngưỡng mộ, tự hào và tôn thờ.
6
Đoàn viên, đội viên làm vệ sinh, thắp hương tại đền thờ Lãnh binh Mai Lượng
Bài vị Lãnh binh Mai Lượng được lập và được trang trọng rước vào thờ tại đình làng Thọ Linh (xã Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình), được đặt ngang hàng với những bậc có công lao lớn nhất với làng xã. Tại từ đường họ Mai ở Thọ Linh còn lưu giữ lư hương, bài vị thờ Lãnh binh Mai Lượng tồn tại hơn cả 100 năm nay.
  Để ghi ơn, Nhà nước đã xây dựng, tôn tạo và khánh thành khu lăng mộ của lãnh binh Mai Lượng ở Núi Đại Sơn (Hòn Nậy-Sủm Mặc) thuộc thôn Hà Sơn, xã Quảng Sơn vào ngày 20/09/2003.
Lăng mộ ông tọa lạc ở một địa thế sơn thủy hữu tình, phía sau là Hòn Nậy với những rừng cây thông xanh rì quanh năm, phía trước là sông Rào Nan uốn lượn mềm mại như một dải lụa, xa xa là những cánh đồng lúa và những xóm làng dân cư.
Với đạo hiếu và lòng thành kính, các bậc con cháu hậu duệ của Lãnh binh Mai Lượng đã xây dựng nhà bia tưởng niệm lãnh binh Mai Lượng. Nhà bia tưởng niệm Lãnh binh Mai Lượng nơi mảnh vườn xưa của ông ở làng Thọ Linh, xã Quảng Sơn. Nhà bia tưởng niệm được xây dựng trong khuôn viên từ đường chi tộc họ Mai ở thôn Thọ Linh. Đây cũng là nơi thờ bài vị ông và hai cụ thân sinh ông Mai Lượng. Nhà bia xây dựng theo lối kiến trúc mới, tại đây có bia đá do con cháu tộc Mai tạo lập ghi tạc công lao của Mai Lượng.
5
Nhà bia tưởng niệm lãnh binh Mai Lượng
Hàng năm, đến ngày 24 tháng 03 âm lịch sẽ là ngày hội tụ họp mặt của các bậc con cháu lãnh binh Mai Lượng cùng với chính quyền và nhân dân địa phương để làm giỗ và lễ dâng hương tưởng niệm ông - một danh tướng xuất sắc của phong trào Cần Vương ở thế kỷ XIX. Danh tướng cần vương Mai Lượng người con ưu tú, mãi mãi là tấm gương sáng, là niềm kiêu hãnh và tự hào của quê hương Quảng Sơn anh hùng./.

Tác giả bài viết: Đoàn xã Quảng Sơn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Thống kê
  • Đang truy cập152
  • Máy chủ tìm kiếm27
  • Khách viếng thăm125
  • Hôm nay33,836
  • Tháng hiện tại832,395
  • Tổng lượt truy cập34,363,114
SĐT nhận cung cấp thông tin
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây